Trang chủGIỚI THIỆUNHÂN NGÀY ĐỘC LẬP:  Nhớ về tướng PHẠM BÀNH (1827-1887): LINH HỒN...

NHÂN NGÀY ĐỘC LẬP:  Nhớ về tướng PHẠM BÀNH (1827-1887): LINH HỒN CỦA KHỞI NGHĨA BA ĐÌNH

 

 

Phạm Bành quê làng Trương Xá (nay thuộc xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hoá), đậu cử nhân khoa Giáp Tý (1864), llàm quan đến chức Án sát tỉnh Nghệ An,  nổi tiếng thanh liêm và biết quan tâm đến đời sống nhân dân.

Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông bỏ quan về quê cùng với Hoàng Bật Đạt mộ quân khởi nghĩa. Giữa năm 1886 ông cùng với Hoàng Bật Đạt, Đinh Công Tráng và một số tướng lĩnh khác xây dựng căn cứ Ba Đình nhằm bảo vệ cửa ngõ miền Trung Việt Nam và làm bàn đạp đánh địch ở đồng bằng. Căn cứ Ba Đình thuộc địa phận huyện Nga Sơn (Thanh Hoá). Sở dĩ gọi là Ba Đình vì nơi đây gồm 3 làng Mỹ Khê, Thượng Thọ, Mậu Thịnh, mỗi làng có một ngôi đình, đứng ở làng này nhìn thấy đình ở hai làng bên và có một ngôi nghè chung, Lập căn cứ Ba Đình nghĩa quân có thể kiểm soát và khống chế đường số 1,  địa thế rất thuận lợi cho việc xây dựng một căn cứ phòng ngự kiên cố và từ đó nghĩa quân có thể toả ra ngăn chặn những hoạt động của địch ở khu vực giữa Ninh Bình và Thanh Hóa.

 

Sau nhiều thất bại nặng nề, thực dân Pháp tập trung đủ mọi binh chủng, có pháo binh yểm trợ  tiến hành bao vây và mở nhiều đợt tấn công mới hạ nổi Ba Đình.

 

Mặc dù tuổi già sức yếu (lúc này ông đã 60 tuổi), Phạm Bành luôn có mặt ở trận địa, nơi nguy hiểm nhất để động viên và khích lệ các nghĩa binh chiến đấu.

 

Sau khi Ba Đình thất thủ, ông đưa nghĩa quân rút về căn cứ dự phòng ở Mã Cao (huyện Yên Định) đêm 20 tháng 2 năm 1887, rồi lánh về quê. Nhưng sau để cứu mẹ già và con là Phạm Tiêu bị quân Pháp bắt làm con tin, ông đã ra đầu thú và uống thuốc độc tự tử ngay sau khi mẹ và con được thả ngày 18 tháng 3 năm Đinh Hợi (tức ngày 11 tháng 4 năm 1887) để tỏ rõ khí tiết của mình.

 

Tên của ông được vinh danh đặt cho một con đường ở quận Bình Tân (TP Hồ Chí Minh), một tuyến phố ở TP Thanh Hóa, một tuyến phố ở TX Sầm Sơn (Thanh Hóa) và một tuyến phố ở thị trấn Hậu Lộc quê ông.

 

Ông để lại  bài thơ nhan đề Ký hữu:

 

Ký hữu

Đồng châu đồng quận hựu đồng danh

Cố chước chung bôi ký trực tình

Tâm tại Đông A ninh cố tử

Chí tồn Nam Việt khẳng thâu sinh

 

Dịch nghĩa:

Gửi bạn

Cùng tên cùng quận lại cùng châu

Mượn chén ghi tình vĩnh biệt nhau

Lòng ở Đông A thà một chết

Chí vì Nam Việt sống thừa sao

(Khương Hữu Dụng dịch)

 

RELATED ARTICLES

Most Popular

Recent Comments